Home / Tin tức / NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THOÁI HOÁ ĐẤT VÙNG BÌNH TRỊ THIÊN

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THOÁI HOÁ ĐẤT VÙNG BÌNH TRỊ THIÊN

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THOÁI HOÁ ĐẤT VÙNG BÌNH TRỊ THIÊN

Nguyễn Văn Dũng1,2

[1] Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

2 Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

* E-mail: tiendungvm@gmail.com

TÓM TẮT

Thoái hóa đất (TTĐ), hoang mạc hóa và biến đổi khí hậu có mối quan hệ tương hỗ. Tất cả đều làm mất đi năng suất sinh học nuôi sống con người, dẫn đến đói nghèo, di cư bất ổn định xã hội trên nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Qua nghiên cứu cho thấy TTĐ vùng Bình Trị Thiên (BTT) có nguyên nhân chủ quan là sử dụng đất chưa hợp lý, đốt rừng làm nương rẫy vẫn diễn ra; khai thác rừng chưa hợp lý; ngoài ra còn tàn dư chất độc dioxin màu da cam trong thời kỳ chiến tranh; và tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ bao cấp; Vùng BTT được xác định có 8 loại TTĐ chính, trong đó TTĐ do xói mòn xảy ra phổ biến, chiếm tỷ lệ lớn nhất. Diện tích TTĐ xói mòn từ trung bình đến nghiêm trọng là 952.030,3 ha, chiếm 53,95% DTTN. TTĐ do thổi mòn có diện tích 91.531,1ha, chiếm 5,19% DTTN. TTĐ bạc màu có diện tích 64.838,3 ha, chiếm 3,67% DTTN. TTĐ do mặn hóa, phèn hóa có diện tích 30.218,7 ha chiếm 1,71%DTTN. TTĐ do ô nhiễm đất điển hình ô nhiễm dioxin trong đất tại một số nơi ở A Lưới, Cam Lộ; TTĐ do ô nhiễm thuốc BVTV có 83 điểm nóng. TTĐ, mất đất do bê-tông, đô thị hóa là 108.467,9 ha.

Từ khóa: thổ nhưỡng, thoái hóa đất, hoang mạc hóa, vùng Bình Trị Thiên.

SUMMARY

Study and assess of the state of land degradation in Binh Tri Thien region

Nguyen Van Dung1,2

1Institute of Geography, Vietnam Academy of Science and Technology
2Graduate University of Science and Technology, Vietnam Academy of Science and Technology

Land degradation (LD), desertification and climate change are interrelated. All of this leads to a loss of biological productivity, lead to poverty, migration, and social instability in many countries and territories. The research shows that the subjective cause of land degradation in Binh Tri Thien region (BTT) include: using land is not rational, burning forest for swidden still takes place; inappropriate forest exploitation; in addition, there are remnants of dioxin in the war period; and residues of pesticides in agricultural production during the subsidy period. LD has been identified with 8 main types, in which LD due to water erosion occurs most commonly, accounts for the largest proportion, and moderate to severe erosive degradation is 952,030.3 ha, accounting for 53.95% of the natural area (NA); LD due to wind erosion covers area of 91,531.1 ha, accounting for 5.19% of the NA; LD of nutrient loss has an area of 64,838.3 ha, accounting for 3.67% of the NA; LD due to salinization and acidification has an area of 30,218.7 ha, accounting for 1.71% of the NA; Soil pollution, especially dioxin contamination is in some places in A Luoi, Cam Lo; Pesticide pollution has 83 hot spots. LD due to concrete and urbanization is 108,467.9 ha.

Keywords: soil, land degradation, desertification, Binh Tri Thien region.

 

Người phản biện: PGS.TS. Lê Thái Bạt
E-mail: hoikhoahocdatvn@yahoo.com

Ngày nhận bài: 11/5/2023

Ngày thông qua phản biện: 01/10/2023

Ngày duyệt đăng: 05/10/2023

GIỚI THIỆU

GIỚI THIỆU VỀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẤT CỦA HỘI KHOA HỌC ĐẤT VIỆT NAM

Tạp chí Khoa học Đất có giấy phép xuất bản số 342/GP-BTTTT ngày 28/6/2016 của Bộ Thông tin Truyền thông, ISSN 2525-2216.
Tên tiếng Anh: VIETNAM SOIL SCIENCE

 

024 3821 0374